Thường những bài đọc dài không khó lắm đâu cả nhà ạ!
Chẳng qua là mình chưa có kỹ năng đọc nhanh, hiểu đúng ý bằng cách rèn luyện từ các bài ngắn.
Kinh nghiệm của mình là thế. Bởi mình đã từng thường là làm sai hầu hết các bài dài.
Nhưng sau khi đọc nhiều các bài ngắn, biết cách tổng kết ý từ những đoạn nhỏ, thì đến một ngày gần đây, là mình thấy đọc bài ngắn nhiều khi còn khó hơn ^^
Hoặc nếu có sai ở những bài dài thì cũng chỉ sai cùng lắm là một câu thui ( mà thường là do mình không tập trung được hết toàn bộ bài ) nên mới sai.
Thế nên đọc bài dài, cần sự minh mẫn, hiểu được cấu trúc bài, cách diễn giải ý.
Mà những kỹ năng ấy, lại hầu hết được rèn luyện qua cấu trúc ngữ pháp, qua từ vựng.
Chung quy lại là đừng có sợ những bài dài làm gì. Vậy thôi ha !
Lương có hai loại được gọi là “Thù lao bên ngoài” và “Thù lao bên trong”. Thù lao bên ngoài chính là tiền lương hay cái mà bạn được nhận bằng tiền như tiền thưởng chẳng hạn. Ngược lại, thù lao bên trong để chỉ thứ thù lao về mức độ hài lòng mà bạn có được thông qua công việc đó, mà không được biểu hiện ra tiền lương.
Ví dụ như tiền lương như này thì sẽ như thế nào?
そのもの: (上にくる語の意味を強めるのに用いる) 他の何ものでもない、まさしくそれ自身。その物自身。その人自身。 => Nhấn mạnh cho từ đằng trước: Chính xác là nó, chính xác là cái đấy…..
Những dạng tiền lương không tên như : “Lương gặp gỡ” có cơ hội tiếp xúc với những người bên ngoài, ” Lương thông tin” được tiếp xúc với những thông tin mới mà chỉ ở đó mới thấy, “lương trau dồi kỹ năng” có thể học được những kỹ năng chuyên môn, “Lương giao lưu” có thể ở cùng với bạn phù hợp, hay “Lương kế cận” có thể đứng cạnh quan sát nhân vật hàng đầu. Nếu có những loại lương như vậy thì là Lương vui vẻ.
Trường hợp của tôi, luôn cố gắng tăng Thù lao tình thần hơn là Thù lao bề ngoài.
Qủa đúng là như vậy, đến tận bây giờ, tôi vẫn không thể nào quên được cú shock bị đánh giá thấp hơn đồng nghiệp, và có những lúc thấy choáng vàng (愕然‗がくぜん) vì khoảng chênh lệch tiền thưởng tới mấy chục man với đồng nghiệp.
Tuy nhiên, nếu phân chia rành rọt (割り切れば)rằng nó không phải là số tiền đe dọa (脅す_おどかす)tới cuộc sống thì, chúng ta có thể thấy rằng tăng số tiền lương không thể nhìn thấy bằng mắt sẽ làm tăng mức độ hài lòng cá nhân hơn.
Hơn nữa, chúng ta cũng hiểu rằng để tiếp tục làm việc lâu dài, thì nếu không có thù lao tinh thần tốt sẽ rất là chán.
Bởi ( ~であって) chính “Cảm giác thành đạt” khi hoàn thành công việc, hay “Cảm giác trưởng thành” được cảm nhận thực tế qua việc bản thân mình đang trường thành sẽ là nguồn động lực cho công việc, và giúp mình nhận ra rằng quá phụ thuộc vào cái gọi là sự đánh giá từ người khác trong năng lực bản thân không phải là thượng sách
Câu 1:
外的報酬と内的報酬の説明として本文と合っているものはどれか。
Trong đoạn văn này, Mô tả về thù lao bên ngoài và thù lao bên trong là gì?
Đọc đến đoạn trên + cộng với câu đầu tiên của đoạn dưới nữa mình sẽ tổng kết ý và ra đáp án là 4
Nếu công việc mà có thù lao bên ngoài có cao đến mấy đi chăng nữa, nhưng thù lao tinh thần lại cực thấp thì sẽ không thể tiếp tục được lâu dài. Hơn nữa, theo đó ( vì đó) mà có nhiều trường hợp không học được gì với số tiền nhận được
Người lại, nếu công việc có thù lao bên trong cao, thì có thể sẽ biến thành thù lao lớn trong tương lai. Nói là khả năng đó có khá nhiều cũng được. Ví dụ như, dù không thể quay trở về đi chăng nữa thì cũng có cái hay có thể đi tiếp.
CÂU 2:
①そこで得たお金とあるが、そことは何を指しているか。
やりがいのある仕事
内容に釣り合わない仕事
報酬の低い仕事
心の満足感を伴わない仕事
そこで: Vì thế cho nên, Theo đó mà….
Như vậy nó sẽ liên kết với lý do đã được nêu ở câu đằng trước.
Ý ở đây là: Không theo đuổi lâu dài được công việc mà có thù lao bên trong thấp => mà thù lao bên trong chính là= Mức độ hài lòng thỏa mãn = 心の満足感を伴わない仕事
=> Chúng mình có thấy khi đọc bài dài cần phải liên kết và tổng hợp ý chưa ^^
Trong số những người bạn của tôi, có người liên tục làm làm thêm hàng chục năm ở phòng biên tập. Lương của anh ta so với nhân viên chính thức khá thấp, và đương nhiên là không có thưởng cũng như tiền nghỉ việc
Tuy nhiên, sau đó khi bạn làm tự do, thì có thể kiếm được tiền thù lao lớn hơn rất nhiều (はるかに) so với nhân viên chính thức. Anh ấy học tập kỹ thuật trong hàng chục năm làm thêm, xây dựng mối liên kết, và mở rộng công việc. Chính xác là (まさに) anh ấy đã kết nối thù lao bên trọng với thành quả thù lao bên ngoài
Tôi nghĩ nếu không thể nhận thù lao trên quan điểm lâu dài hoặc tổng thể bao gồm cả sự hài lòng trong trái tim, thay vì tính toán lương theo giờ, thì sẽ không thể tăng lương đến mức tối đa được.
(松永真理『シゴトのココロ』による)
CÂU 3:
②まさに内的報酬が外的報酬へと実を結んでいったとあるが、どういうことか。
仕事に慣れて早く片づけられるようになり、同僚と同じ金額の収入を得た。
成長感や達成感を得るために働いてきたことが、高い収入につながった。
10年間アルバイトを続けて、正社員と同じ収入を得られるようになった。
ボーナスも退職金もないが、同じ会社で仕事を続けた結果、収入が増えた。
まさに: quả đúng là, chính xác là.
Đây là dạng từ nối nhấn mạnh lại những điều mà tác giả đã đề cập ở đằng trước. Nói về người bạn của mình đã thay đổi thế nào từ làm thêm đến lương cao khi làm free.
Anh ấy học hỏi kỹ năng, kinh nghiệm ( thù lao tinh thần) trong suốt nhiều năm để có được lương cao ( thù lao bên ngoài)
Nên đáp án là:
2. 成長感や達成感を得るために働いてきたことが、高い収入につながった。
CÂU 4:
この文章で筆者が最も言いたいことはどれか。
人脈や仕事の幅を広げて高い収入を得ることができれば、それが仕事の原動力になる。
見えないところで努力して仕事をすれば、他人が高く評価してくれ、いつか収入も高くなる。
大きな収入を得たいと考えるなら、アルバイトを続け高い技術や人脈を得ることが大切だ。
すぐに高い収入に結びつかなくても、心の満足感を重視して仕事を続けることが大切だ。
Đáp án chính là câu cuối tác giả viết. ( kèm theo ví dụ về anh bạn thân )